“Nhật ký trong tù và lời bình” hay trò đùa của Lê Xuân Đức?
Hoàng Tuấn Công
Phần III: Không có chữ dạy người biết chữ
Ở phần I và phần II bài viết, bạn đọc đã được biết đến chuyên gia số 1 về thơ Bác, Lê Xuân Đức chữ tác đánh chữ tộ, không chỉ phá hỏng nguyên tác "Nhật ký trong tù", lại còn "vào" Nhà xuất bản chính trị quốc gia để "đạo" nội dung cuốn sách "Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh-chú thích-thư pháp" của GS Hoàng Tranh (Trung Quốc). Chuyện động trời tới mức, chúng tôi tưởng đó là trò đùa. Nhưng, cái hay, cái đúng Lê Xuân Đức đạo đã đành. Đằng này, những sai sót nhầm lẫn, thiếu chính xác của người ta Lê Xuân Đức cũng cứ “xài” liền liền.
1.Bài Bạn tù họ Mạc. Hai câu:
“Xa đại pháo” tài chân vĩ đại,
Tại tù nhưng tưởng ngật nhân sâm.
Lê Xuân Đức giảng giải: “Xa đại pháo là một phương ngữ ở Quảng Đông (chứ không phải như chú thích của Viện văn học trong bản dịch năm 1983) có nghĩa là một tấc lên trời, huênh hoang khoác lác. Phương ngữ này cùng một nghĩa với thành ngữ ở Quảng Đông “Đại suy đại lôi” nghĩa là bốc phét quá chừng, quá mức”.
Xin trao đổi với Lê Xuân Đức mấy điểm sau đây:
a/Cái ý “Xa đại pháo là phương ngữ Quảng Đông” chẳng qua Lê Xuân Đức “chôm” của GS Hoàng Tranh trong “Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh-chú thích-thư pháp, (chú thích tr.128). GS Hoàng Tranh viết:"phương ngôn", ông đổi thành "phương ngữ". Mặt khác, Lê Xuân Đức nói "phương ngữ này cùng một nghĩa với thành ngữ ở Quảng Đông" là chẳng hiểu hai khái niệm phương ngữ và thành ngữ nó giống nhau, khác nhau ra sao. Hơn nữa, Viện văn học chú thích sai như thế nào, sao ông không nói rõ mà lại lập lờ như vậy ? Bởi, cái ý“Xa đại pháo” nghĩa là “huênh hoang, khoác lác” đã được Nam Trân hiểu đúng và dịch là “một tấc lên mây”rồi, Lê Xuân Đức còn “phát hiện” làm gì nữa ? (Một tấc lên mây” ghê gớm thật, Ngồi tù mà vẫn ước nhân sâm-Nam Trân dịch).
b.Câu “Đại suy đại lôi” không biết Lê Xuân Đức chép ở đâu, nhưng đã chép sai. Vì viết đúng là “Đại xuy đại lôi” (xuy chữ X) chứ không phải “Đại suy đại lôi”(suy chữ S). Chữ “xuy” này không có nghĩa là “suy” như ông “suy diễn” mà có nghĩa là thổi (xuy trong xuy địch:Mục đồng xuy địch dẫn ngưu quy). “Đại xuy đại lôi”(xuy = thổi; lôi =đánh) có nghĩa là cùng lúc tấu các loại nhạc cụ lên. “Đại xuy đại lôi” vốn là một đoạn trong lời thoại vở kịch Tứ đại vương ca vũ Lệ Xuân đường” (四大王歌舞麗春堂, Bốn đại vương ca múa ở nhà Lệ Xuân), còn gọi là vở Lệ Xuân đường của nhà viết kịch Vương Thực Phủ đời Nguyên:“Ban cho anh hoàng kim ngàn lượng, rượu thơm trăm bình, tại Lệ Xuân đường cùng tấu tất cả nhạc khí lên (đại xuy đại lôi-大吹大擂) tổ chức tiệc vui thật linh đình”. (赐你黄金千两,香酒百瓶, 就在丽春堂大吹大擂, 做一个喜庆的筵席).
Trong lời thoại trên: ngàn lạng vàng, trăm bình rượi thơm, tấu tất cả các nhạc khí lên, đều mang vẻ rất khoa trương. Và “đại xuy, đại lôi” được lẩy ra để dùng như một thành ngữ chỉ sự khoe khoang quá mức. Như vậy, câu thành ngữ “Đại xuy đại lôi” vốn là một “tích” trong vở kịch, đâu phải là “một thành ngữ ở Quảng Đông” như Lê Xuân Đức nói.
Nói thêm: Lê Xuân Đức từng có bài viết “Đi nhiều để hiểu sâu hơn” trên Báo Công anh nhân dân và Báo Thanh Hóa. Ông viết: “Đặc biệt, cùng với việc tìm hiểu một số phương ngữ, thành ngữ Quảng Tây (Trung Quốc), một số điển cố lịch sử và thơ ca cổ Trung Quốc mà Bác sử dụng và tập cổ trong "Nhật ký trong tù", tôi đã có hai chuyến điền dã ở Quảng Tây, là nơi Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm trước đây. Chuyến thứ nhất, lần theo con đường tù đày của Bác qua 13 huyện tỉnh Quảng Tây: Tĩnh Tây, Thiên Bảo (nay là Đức Bảo), Điền Đông, Quả Đức, Long An, Đồng Chính (nay là Phù Tuy), Ung Ninh, Nam Ninh, Vũ Minh, Tân Dương, Lai Tân (nay là khu Hưng Tân, trực thuộc thành phố Lai Tân), Liễu Châu, Quế Lâm và một chuyến trở lại một số địa điểm cần thiết để xác định và hiểu rõ hơn những điều cần tìm hiểu”.
Theo đó, Lê Xuân Đức từng sang Quảng Tây-Trung Quốc “điền dã”, và đã đi tới hai lần. Nhưng rốt cuộc ông lại “cầm nhầm” sách “Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh-chú thích-thư pháp”của GS Hoàng Tranh và cứ ngỡ đây là sổ tay “điền dã” của mình ! Riêng câu “Đạisuy đại lôi” hiện chúng tôi chưa biết Lê Xuân Đức đã “điền dã” được ở đâu, nhưng vì không hiểu cặn kẽ nên đã chép sai văn bản và gán cho nó cái xuất xứ “thành ngữ ở Quảng Đông” vậy đó.
2.Bài Bị hạn chế:
Một hữu tự do chân thống khổ,
Xuất cung dã bị nhân chế tài;
Khai lung chi thời đỗ bất thống,
Đỗ thống chi thời lung bất khai.
Nam Trân dịch:
Đau khổ chi bằng mất tự do,
Đến buồn đi ỉa cũng không cho;
Cửa tù khi mở, không đau bụng,
Đau bụng thì không mở cửa tù.
Bài này GS Hoàng Tranh chú thích: “Hai chữ xuất cung (出恭), tiếng Quảng Đông có nghĩa là đi ngoài”. Thế là Lê Xuân Đức bám ngay vào đây để “bình”: “Những từ Hán-Việtnôm na mách qué, theo quan niệm truyền thống, đặc biệt thơ cổ là tối kỵ, uế tạp, nhưng với Bác, giản dị đã trở thành bản lĩnh...” Thế nhưng, Lê Xuân Đức chỉ quen nói theo, "chôm đồ" của GS Hoàng Tranh mà không tự tìm hiểu xem nó là đồ thật hay đồ giả. Liệu có đúng đây là “tiếng Quảng Đông” không. Và tại sao “xuất cung” 出恭 (chữ cung trongcung kính) lại được đem dùng để nói một việc chẳng ăn nhập gì là "đi ị" ? Lê Xuân Đức có điều kiện sang Trung Quốc “điền dã” sao không tra cứu từ điển Tàu cẩn thận rồi hẵng viết, thay vì nói theo người khác ?
Từ “xuất cung” vốn sinh ra ở chốn trường thi (từ đời Nguyên bên Tàu). Vào trường thi, sĩ tử làm bài kéo dài tới cả ngày trời nên phải đem theo thức ăn, nước uống tự phục vụ tại chỗ. Riêng việc đại tiện, tiểu tiện, để tránh thí sinh tự ý đi lại, rời vị trí ngồi, gian lận tài liệu, trường thi quy định phải “xuất cung, nhập kính”. Tức ra, vào đều phải có phép tắc nghiêm chỉnh. Muốn đi đái, đi ỉa, trước tiên sĩ tử phải xin phép và lĩnh tấm thẻ có chữ “xuất cung” mới được đi nhà xí. Do vậy, người ta gọi đi nhà xí là “xuất cung”. Lại gọi đại tiện là “xuất đại cung”, tiểu tiện là “xuất tiểu cung”. (Nguyên đại khởi: Khoa cử khảo trường trung thiết hữu: xuất cung, nhập kính bài, dĩ phòng sĩ tử đàn ly tọa vị, sĩ tử nhập xí tu tiên lĩnh thử bài, nhân xưng nhập xí vi xuất cung. Tịnh vị đại tiện vi xuất đại cung, tiểu tiện vị xuất tiểu cung-Nguyên văn chữ Hán trong từ điển Tàu, HTC phiên âm,dịch nghĩa).
Như thế, “xuất cung” không phải là “tiếng Quảng Đông” ? Và dĩ nhiên Bác Hồ cũng không hề “nôm na, mách qué” như Lê Xuân Đức nghĩ. Bác nói chữ đó !
Nói thêm: Trong nguyên tác chữ Hán “Tây du ký” của Ngô Thừa Ân chương 29, đoạn nói Trư Bát Giới khoe khoang, mắng nhiếc Huỳnh Bào rồi cùng Sa Tăng nhảy vào giao chiến. Đánh tới 90 hiệp, Bát Giới đã mệt lử, Sa Tăng cũng hết hơi mà không thắng nổi. Có nguy cơ bại trận, Bát Giới mới nói lừa Sa Tăng: “Hiền đệ cố sức cầm cự tiếp, đợi ta "đi ngoài" cái đã, xong sẽ quay lại ngay”. (Sa Tăng ! Nhĩ thả thượng tiền lai, dữ tha đấu trước, Lão Trư xuất cung lai ( 沙僧,你且上前来与他斗着,老猪 出恭来)Sa Tăng tin lời Bát Giới, đem hết sức ra đánh. Chẳng ngờ Bát Giới chạy xa, tìm chỗ mát nằm ngáy khò khò. Còn Sa Tăng đợi Bát Giới hết hơi, một mình đánh không lại, bị Huỳnh Bào bắt sống trói gô lại.
Việt Nam cũng có từ “đi ngoài” để chỉ “đại tiện”. Rất có thể từ này cũng xuất phát từ cách nói “xin ra ngoài” của sĩ tử trường thi xưa. Chúng tôi còn nhớ hồi nhỏ đi học, ban đầu đứa nào đứa nấy cứ bô bô: “Thưa cô, cho em xin ra ngoài đi ỉa”. Thầy cô mới dạy cho phép lịch sự: “Từ nay, em nào “muốn vậy”, phải nói rằng “Thưa cô, cho em ra ngoài có việc” nhớ không ? Xin phép “ra ngoài có việc” bao giờ cũng dễ dàng và được “phóng thích” nhanh nhất. Thế là đôi khi chẳng hề có nhu cầu "xuất cung", hay “có việc” gì nhưng có đứa ngồi chán trong lớp, cũng vờ đứng dậy nhăn nhó:“Thưa cô cho em ra ngoài có việc”.
Việc “thó” phải “đồ giả” của Lê Xuân Đức không chỉ dừng lại ở một vài trường hợp .
3.Bài “Ghẻ lở”. Hai câu:
Mãn thân hồng, lục như xuyên cẩm,
Thành nhật lao tao tự cổ cầm;
(Khắp người xanh đỏ như hoa gấm,
Suốt ngày gãi sột soạt tựa gảy đàn)
-GS Hoàng Tranh (sách đã dẫn tr.193) chú thích:
“Hai chữ “thành nhật” (成日) là tiếng địa phương của vùng Quảng Đông. Những năm 20 và 30 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã từng hoạt động cách mạng ở vùng Quảng Châu và Hồng Kông tiếp xúc với tiếng Quảng Đông, nên trong các câu thơ thường xuất hiện một số từ ngữ Quảng Đông. Ví dụ: xuyên cẩm (穿錦) - mặc áo gấm, “cổ cầm” (鼓琴)-gảy đàn, để so sánh với cái ghẻ lở trên thân thể người bị giam trong tù”.
-Tài liệu “điền dã” và “lời bình” của Lê Xuân Đức:
“Hai chữ “thành nhật” là tiếng địa phương vùng Quảng Đông, Bác đã từng hoạt động cách mạng ở vùng Quảng Đông những năm 20 và 30 của thế kỷ XX, tiếp xúc nhiều và dùng tiếng Quảng Đông, nên trong các câu thơ thường xuất hiện một số từ ngữ Quảng Đông như trong bài nà: Thành nhật: suốt ngày, xuyên cẩm: mặc áo gấm, cổ cầm: gảy đàn, là cách nói hình ảnh chỉ cái ghẻ và gãi ghẻ trên thân thể người bị giam trong tù”.
Như vậy, Lê Xuân Đức tiếp tục “đạo” chú thích của GS Hoàng Tranh làm “tài liệu điền dã” của mình. Nhưng GS Hoàng Tranh là người Lưỡng Quảng (cụ thể Quảng Châu-Quảng Đông-Trung Quốc). Vì yêu tiếng mẹ đẻ của mình nên nhiều từ, ngữ GS Hoàng Tranh cho rằng nó là phương ngữ độc đáo của riêng vùng Quảng Đông. Thế nhưng, Lê Xuân Đức là người Việt Nam, lại đang nghiên cứu về một tác phẩm tuy viết bằng chữ Hán nhưng tác giả của nó lại là một người Việt Nam: Nhà thơ - Lãnh tụ Hồ Chí Minh, sao lại nói theo, lại “đạo” nguyên xi cái ý chủ quan của một người Quảng Đông-Trung Quốc ?
-Từ “thành nhật” từ điển Tàu có mở ngoặc là phương(方) tức phương ngữ. Tuy nhiên, các từ “xuyên cẩm”, “cổ cầm” không được xếp vào phương ngữ, càng không phải là phương ngữ của Quảng Đông.
1.Từ “xuyên cẩm”: Tiếng phổ thông Trung Quốc, “xuyên” được dùng để tạo nên các kết hợp từ như: mặc quần áo, đi tất, đi găng tay, đi dép,v.v...
-Từ điển Hán Việt (Phan Văn Các chủ biên): “Xuyên: Mặc/đi giày, tất, găng tay. xuyên hài 穿鞋 (đi dép); xuyên y phục穿衣服 (mặc quần áo)
-Từ điển Hán Việt-Đào Duy Anh: Xuyên hiếu 穿孝(mặc áo tang, để tang). Xuyên y 穿衣-mặc áo vào mình.
-Tự điển Hán-Việt (Trần Văn Chánh): Xuyên: Mặc, mang, đi: 穿衣服 Mặc quần áo; 穿鞋 Đi giày.
-Từ điển Việt Hán (Đinh Gia Khánh hiệu đính): “Mặc:穿(衣) mặc quần áo穿衣服 (xuyên y phục)
-Thành ngữ Trung Quốc: Xuyên y, đới mạo, các nhân sở hiếu 穿衣,戴帽,各人所孝 (Mặc áo đội mũ, mỗi người một sở thích); Xuyên hắc y, bão hắc trụ 穿黑衣,抱黑柱 (Mặc áo đen, ôm cột đen). Ngoài từ “xuyên” để chỉ mặc quần áo, đi dày, đi tất...không thấy từ điển Tàu và từ điển Hán-Việt; Việt-Hán của ta ghi nhận từ nào khác đồng nghĩa.
Như vậy, cái áo gấmthêu dệt nhiều màu của người quý phái, Hồ Chí Minh dùng “xuyên cẩm” 穿 錦 (xuyên=mặc; cẩm= áo gấm), với nghĩa là mặc áo gấm, để chỉ đùa màu da bị ghẻ lở, lý do gì để xếp vào “phương ngữ Quảng Đông” ?
2.Từ “cổ cầm”: Đây cũng là từ phổ thông, bởi đơn giản “cổ” nghĩa là đánh, “cầm” là đàn cầm.
-Từ điển Hán Việt (Đào Duy Anh) 鼓琴 “Cổ cầm: đánh đàn cầm”.
-Hán Việt tự điển (Thiều Chửu): Cổ 鼓 ① Cái trống.② Ðánh trống. ③ Gảy, khua. ④ Quạt lên, cổ động. ⑤Trống canh.
-Từ điển Hán Việt (Trần Văn Chánh): Cổ 鼓 ① Trống:銅鼓 Trống đồng; 更鼓 Trống canh; ② (văn) Đánh trống; ③Đánh, gảy, khua, làm cho kêu, vỗ: cổ cầm 鼓琴Đánh đàn.
“Cổ” là đánh, gảy, khua nhạc cụ; “cầm” là đàn cầm,loại đàn có 7 dây ngày xưa, khi đánh đàn phải dùng mười ngón tay để gẩy. Bác Hồ mượn hình ảnh đó để chỉ đùa động tác gãi ghẻ, lý do gì Lê Xuân Đức xếp vào “phương ngữ Quảng Đông” ?
Vậy, bây giờ một trong hai tội: đạo văn và viết sai, Lê Xuân Đức chọn tội nào ? Nếu Lê Xuân Đức không muốn nhận mình viết sai, chỉ còn một cách là thú nhận tội đạo văn, đạo ý tưởng của GS Hoàng Tranh mà thôi !
Văn chương Lê Xuân Đức sao chép, hoặc kết quả của những chuyến đi “điền dã” là như vậy. Còn những “sáng tạo” của riêng ông thì sao ?
1.Bài Buồn bực. Hai câu:
Hoàn cầu chiến hỏa thước thanh thiên,
Tráng sĩ tương tranh phó trận tiền.
-Chữ “hoàn” Lê Xuân Đức giải nghĩa: “Hoàn cầu (hoàn đầy đủ; cầu, quả tròn, trái đất)”. Sai nghiêm trọng ! Chữ “hoàn” 環 (hoàn có bộ ngọc) trong “Hoàn cầu” nghĩa khắp trái đất. Còn chữ “hoàn” với nghĩa “đầy đủ” như Lê Xuân Đức giảng giải viết là 完 (chữ hoàn này có bộ miên - không phải trong nguyên tác thơ Hồ Chí Minh) có nghĩa: vẹn, đầy đủ, xong cả, tốt..., được dùng trong các kết hợp từ như:hoàn hảo, hoàn công,v.v...
-Từ “Tráng sĩ” Lê Xuân Đức giảng:“Tráng sĩ (tráng: mạnh mẽ; sĩ: người có học) là người có sức mạnh, có ý chí, có tri thức”. Lê Xuân Đức lại nói sai rồi ! Vậy dũng sĩ, liệt sĩ thì sao ? Chữ “sĩ” ở đây chẳng nhẽ cũng là “người có học, có tri thức” chắc ? Chữ士 trong giáp cốt văn và kim văn vốn có hình vẽ cái búa, tượng trưng cho hình quan, và ban đầu có nghĩa là hình quan coi ngục, sau mới thêm nhiều nghĩa khác. Tuy cũng viết là “sĩ” 士, nhưng “tráng sĩ” không được hiểu với nghĩa: Người trí thức trong xã hội cũ, kẻ sĩ, học trò: 學士Học sĩ; 士農工商 Sĩ nông công thương mà là các gọi tôn xưng người khác.
-Hán Việt từ điển (Phan Văn Các): “Sĩ士 (cách gọi ca ngợi người khác) Liệt sĩ, dũng sĩ, nữ sĩ”
-Từ điển Hán Việt (Trần Văn Chánh): “Sĩ士Người, kẻ (cách diễn đạt tỏ ý lịch sự và tôn trọng đối với hạng người nào đó): 志士 Chí sĩ; 壯士 Tráng sĩ; 烈士 Liệt sĩ”.
Như vậy cái sai của Lê Xuân Đức xuất phát từ chỗ không phân biệt được chữ Hán đồng âm, đồng tự nhưng đa nghĩa.
2. Bài Đáp xe lửa đi Lai Tân:
Câu “Kim thiên đắc tháp hỏa xa hành” (Hôm nay được đáp xe lửa). Lê Xuân Đức bình và giải nghĩa: “Chữ tháp của Hán tự có nghĩa là gắn vào, cắm vào, trong văn cảnh bài thơ này có nghĩa là đáp, từ mà những người quyền quý, giàu có thường dùng để thể hiện sự sang trọng, chứ dân chúng chỉ nói là đi (xe lửa).
-Căn cứ vào đâu, Lê Xuân Đức nói rằng: chữ “tháp” có nghĩa là “gắn vào, cắm vào” ? Hóa ra, Lê Xuân Đức đã nhầm với chữ “sáp” viết là 插 có một âm đọc khác là “tháp”. Chữ “sáp” này viết khác chữ “tháp” 搭 (đáp) trong nguyên tác thơ Hồ Chí Minh. Chữ “tháp” (sáp) mà Lê Xuân Đức nhầm lẫn được Trần Văn Chánh giải nghĩa: “Tháp 插 ① Cắm, cấy, giâm, trồng, cho vào, thọc vào, cài, gài, xen, gắn, xen thêm, gắn thêm, giắt: 把花插在瓶子裡 Cắm hoa vào lọ; 把手插在口袋裡Cho tay vào túi, thọc tay vào túi”.
-Chữ “tháp” 搭có một âm đọc là “đáp”, có nghĩa là đi tàu, đi xe chứ không phải “trong văn cảnh bài thơ này có nghĩa là đáp” như Lê Xuân Đức nói ?
-Chữ “đáp” 搭 đồng nghĩa với chữ “tọa” 坐 ,chứ chẳng phải “từ mà những người quyền quý, giàu có thường dùng để thể hiện sự sang trọng, chứ dân chúng chỉ nói là đi (xe lửa)”như Lê Xuân Đức giảng giải:
+Hán Việt từ điển (Thiểu Chửu) “Đáp: Phụ vào, đáp đi, như đáp xa 搭車 đạp xe đi, đáp thuyền搭船 đáp thuyền đi, v.v.
+Từ điển Hán Việt (Trần Văn Chánh): Đáp 搭, đi, ngồi: 搭飛機 Đáp máy bay; 搭長途汽車 Đi xe ca, đi xe đò;貨船不搭客人 Tàu (thuyền) chở hàng không chở hành khách”.
-Lê Xuân Đức nói: Ở Trung Quốc“dân chúng chỉ nói là đi (xe lửa)” là quên mất rằng mình đang bình thơ chữ Hán, tìm hiểu nghĩa chữ Hán. Thưa ông, người Trung Quốc (Hán ngữ) không nói đi tàu, đi xe như người Việt Nam, mà ngoài từ“đáp”, họ thường dùng từ “tọa” 坐 nghĩa là ngồi: tọa hỏa xa-đi xe lửa; tọa khí xa-đi ô-tô, tọa phi cơ-đi máy bay và không phân biệt ‘đẳng cấp” như ông nghĩ. Từ điển Hán Việt (Trần Văn Chánh) đồng nghĩa từ “tọa” với từ “đáp”: “Tọa ②Đi (xe), đáp: 坐汽車 Tọa khí xa -Đi xe hơi; 坐飛機去河内Tọa phi cơ khứ Hà Nội-Đáp máy bay đi Hà Nội”
Ngay từ đi tàu, đi ô tô của người Việt Nam cũng là cách gọi tắt của đi (bằng) tàu hỏa, đi (bằng) ô tô. Trước đây, từ “đáp” ô tô, “đáp” tàu hỏa cũng từng được người Việt Nam sử dụng với nghĩa tương đương với từ “đi” (tàu) mà không phân biệt người sang, kẻ hèn.
Trình độ Hán học của Lê Xuân Đức là như vậy đó. Nhưng Lê Xuân Đức lại đem ra để dạy người khác:
1. Bài Đường đời hiểm trở.
Câu:"Cao sơn ngộ hổ chung vô dạng", Nam Trân dịch: "Núi cao gặp hổ mà vô sự" vừa hay vừa bám sát nguyên tác. Thế nhưng Lê Xuân Đức lại không vừa ý:"Nếu dịch vô dạng là vô sự thì chưa chính xác. Trước tai họa gặp hổ mà nói là vô sự, gặp nguy hiểm rồi đấy chứ. Có nhà nghiên cứu cho biết vô dạng là lời người xưa hỏi thăm người gặp nguy hiểm nhưng được yên lành, không có chuyện gì xảy ra, nên vô dạng có nghĩa là bình yên, yên ổn và đề nghị dịch là: Non cao gặp hổ mà yên ổn".
Chẳng có “nhà nghiên cứu” nào đâu. Lê Xuân Đức hãy giở Hán Việt tự điển của Thiều Chửu và Trần Văn Chánh ra xem nghĩa của chữ dạng 恙: ① Bệnh xoàng. ② Việc gì, như hỏi thăm ai thì nói vô dạng 無恙không việc gì chứ ? 3. An nhiên vô dạng: 安然無恙Bình yên không có việc gì.
Lê Xuân Đức lại giở thêm Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh: “Vô dạng 無恙: Không có tật bệnh,lo lắng gì-không có hề gì, không nguy hiểm gì”.
Vô sự tức không có chuyện gì xảy. Mà không có chuyện gì xảy ra nghĩa là yên ổn, bình an chứ còn gì nữa ?
Riêng chuyện Lê Xuân Đức thắc mắc: "Trước tai họa gặp hổ mà nói là vô sự, gặp nguy hiểm rồi đấy chứ". Theo chúng tôi: Bác Hồ viết "Núi cao gặp hổ mà vô sự, Đường phẳng gặp người bị tống lao" là muốn tạo ra hiệu quả so sánh, đối lập giữa hổ và người (cụ thể là chính quyền bắt giam Bác) để nói "chính sự hà khắc còn đáng sợ hơn hổ dữ" đó.
Vì không hiểu ý tứ sâu xa trong câu thơ của Bác nên Lê Xuân Đức mới sửa lời thơ dịch của Nam Trân:“Núi cao gặp hổ mà vô sự” thành: “Non cao gặp hổ mà yên ổn” (!) Đọc lên thấy tênh hênh như vậy đó.
Nói thêm: Chuyện Hà chính mãnh ư hổ và câu nói của Khổng tử với học trò khi đi qua núi Thái Sơn nhiều bạn đọc đã biết. Nhưng xin ghi lại để nếu tình cờ đọc được Lê Xuân Đức khỏi thắc mắc, chê bai Nam Trân: Khổng Tử đi ngang qua núi Thái Sơn, thấy một người đàn bà đang khóc lóc ở mộ rất bi thương. Phu tử tựa đòn ngang xe, cúi xuống nghe thấy, sai Tử Lộ hỏi bà rằng: “Tiếng khóc của bà dường như đang có nỗi đau buồn chất chứa ?”. Người đàn bà mới trả lời: “Đúng thế. Ngày trước cha chồng tôi chết vì cọp, sau đó chồng tôi chết vì cọp, bây giờ con trai tôi cũng chết vì cọp”. Phu tử mới hỏi: “Tại sao bà lại không bỏ đi nơi khác ?”. Người đàn bà đáp lại: “Vì ở đây chính sự không hà khắc”. Phu tử mới quay lại nói: “Các trò hãy ghi nhớ điều đó. Chính sự hà khắc còn tàn bạo hơn cọp vậy”. (theo sách Lễ Ký -HTC dịch lại trên cơ sở bản dịch của Trần Văn Chánh)
2.Bài "Viết thay báo cáo cho bạn tù":
Đồng chu cộng tế nghĩa nan từ,
Thế hữu biên tu báo cáo thư.
Phụng thử đẳng nhân kim thủy học,
Đa đa bác đắc cảm ân từ.
Nam Trân dịch nghĩa:
Cùng hội cùng thuyền việc nghĩa khó từ chối,
Viết hộ báo cáo giúp bạn;
Phụng thử đẳng nhân nay mới học,
Thế mà đã nhận được bao lời cảm ơn.
Và dịch thơ:
Cùng hội cùng thuyền nên phải giúp,
Viết thay báo cáo dám từ nan;
Chiểu theo thừa lệnh nay vừa học,
Đã được bao lời bạn cảm ơn.
Với bản dịch này của Nam Trân, Lê Xuân Đức nhận xét: "Bản của Nam Trân thanh thoát, giản dị như nguyên tác. Tuy nhiên, cần chuyển ngữ một số từ sao cho sát nghĩa, đúng nghĩa. Ví như "nan từ" có nghĩa là khó từ chối, nếu chuyển "nan từ" thành "từ nan" thì vẫn chưa rõ nghĩa, thậm chí còn có thể gây hiểu lầm từ chối một việc khó khăn, "từ nan" như bản dịch".
Ở đây, Lê Xuân Đức không hiểu, hoặc hiểu lầm là do trình độ hạn chế của bản thân, phải đâu tại cụ Nam Trân dịch thơ ? Được biết Lê Xuân Đức rất am tường lịch sử và văn học Việt Nam, vậy xin đọc lại hai câu thơ đánh giặc Đèo Cát Hãn của Lê Lợi trên bia cổ Hào Tráng, khắc trên vách đá sông Đà:
-Kỳ khu hiểm lộ bất từ nan,
Lão ngã do tồn thiết thạch can.
Nghĩa là:
Đường gồ ghề hiểm trở, chẳng ngại khó khăn,
Ta tuy già mà gan còn vững như sắt đá.
Đọc lại rồi, chắc Lê Xuân Đức hiểu tại sao Lê Lợi cũng dùng hai chữ "từ nan" (giống như cụ Nam Trân) mà mọi người vẫn không hiểu lầm là Lê Lợi đã "từ chối một việc khó khăn" . Bởi vì trước hai chữ "từ nan" có chữ"bất". "Bất từ nan" nghĩa là không ngại khó khăn. Với Nam Trân, đã có chữ "dám" đứng trước hai chữ "từ nan", thành: "dám từ nan", nghĩa là không dám từ chối khó khăn: “Viết thay báo cáo dám từ nan” (Chữ “dám” ở đây nghĩa là đâu dám, không dám. Việt Nam tự điển: “Dám: bạo, không sợ. Dẫu mòn bia đá dám sai tấc vàng (Kiều).
Như thế, Hồ Chí Minh dùng "nan từ" là khó có thể từ chối, Nam Trân dịch là "dám từ nan" nghĩa là không dám từ chối, thì có đâu là nghịch nghĩa, có gì mà hiểu lầm ?
3.Bài Cấm hút thuốc. Hai câu:
Yên cấm thử gian hẩn lệ hại,
Nhĩ yên kiểu nhập tha yên bao;
Nam Trân dịch nghĩa:
Ở đây lệnh cấm hút thuốc lá rất gắt gao,
Thuốc của anh phải nộp vào túi thuốc của nó
Và dịch thơ:
Hút thuốc nơi này cấm gắt gao,
Thuốc anh nó tịch bỏ vào bao.
Tưởng chẳng có gì đúng và hợp lý hơn nữa. Thế nhưng ông Lê Xuân Đức lại bức xúc: "Trước đây, câu đầu bài thơ được dịch là “Hút thuốc nơi này cấm gắt gao”, xin được lưu ý nguyên bản câu thơ này là "Yên cấm thử gian hẩn lệ hại"; lệ hại có nghĩa là lợi hại, hẩn lệ hại là rất lợi hại. Như vậy, nghĩa và ý câu thơ khác hoàn toàn với gắt gao. Rất lợi hại ngầm ý châm biếm cái lệnh cấm vô lý ấy".
Nhưng Lê Xuân Đức biết một mà không biết hai. "Lệ hại" 厲害trong nguyên tác "Ngục trung nhật ký" dùng với nghĩa là "ghê gớm", "khủng khiếp" chứ không phải là lợi hại theo cái nghĩa ông phỏng đoán.
- Hán Việt tự điển (Thiều Chửu) giải nghĩa: "Lệ厲: Mạnh dữ. Như tái tiếp tái lệ 再接再厲 lại đánh lại càng hăng dữ. ⑤ Ác, bạo ngược".
-Từ điển Hán Việt (Đào Duy Anh): "Lệ: Mài, Dữ tợn, Nghiêm khắc, ác".
-Từ điển Hán Việt (Phan Văn Các chủ biên):
+ Lệ: nghiêm ngặt; lệ hành thi hành nghiêm ngặt. 2, Nghiêm túc, nghiêm khắc, nghiêm nghị.
+ Lệ hại: 厲害 ghê gớm/lợi hại/kịch liệt/hung dữ.
Lưu ý, chữ “lợi hại” mà từ điển của Phan Văn Các dùng để miêu tả từ “lệ hại” cũng được hiểu với nghĩa là ghê gớm, đáng sợ. Ví dụ: vũ khí lợi hại (chứ không phải lợi hại là mối quan hệ so sánh giữa cái lợi và cái hại như Lê Xuân Đức nghĩ). Vậy Nam Trân dịch: Yên cấm thử gian hẩn lệ hại là “Hút thuốc nơi này cấm gắt gao” có gì là “khác hoàn toàn”với nguyên tác như Lê Xuân Đức phản đối ?
4.Bài Long An-Đồng Chính:
Câu “Thử gian thổ địa quảng nhi bần” (Vùng này ruộng đất rộng nhưng nghèo kiệt, cằn cỗi) Lê Xuân Đức “bình”: “Những từ tác giả dùng là từ của đời thường, thông dụng. Chẳng hạn như thổ là đất, thổ địa là đất đai, ruộng đất; bần là nghèo, không đủ; bần đi với thổ địa là để chỉ đất đai, cằn cỗi, bạc màu”.
Người Tàu đều gọi ruộng đất là “thổ địa” dù trong sách vở hay giao tiếp. Họ gọi cách mạng ruộng đất là “thổ địa cách mạng”. (Sách Tân thời đại thực dụng điển khánh đối liên-Nông thôn độc vật xuất bản xã (Bắc Kinh) có hẳn một chương câu đối ca ngợi “thổ địa cách mạng” của Trung Quốc). Luận cương cách mạng tư sản dân quyền do Trần Phú soạn thảo cũng từng dùng cách gọi tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng. Có gì là “giản dị” với “đời thường” ? Vậy cách gọi “ruộng đất” không “giản dị”, không “đời thường”là gì thưa Lê Xuân Đức ? Nghe Lê Xuân Đức giảng, bạn đọc ngỡ đâu mình đang ngồi cùng lớp với các em học sinh tiểu học chứ không phải nghe “thẩm bình” Nhật ký trong tù.
Trong bài “Bình và nghĩ về thơ Hồ Chí Minh”của GS Phong Lê (tài liệu gồm toàn các GS của ta và của Tàu ngợi khen Lê Xuân Đức, do chính Lê Xuân Đức phô tô gửi tặng nhiều người trong dịp về nghỉ 30/4-1/5 tại Thanh Hóa) có viết: “Ông (tức Lê Xuân Đức-HTC chú thích) thuộc trong số không nhiều người có thâm niên theo đuổi khá lâu và khá sâu trong định hướng được lựa chọn, có những đóng góp đáng kể”.
Quả đúng là riêng “thâm niên” 40 năm nghiên cứu “thẩm bình” thơ của Lê Xuân Đức đã nhiều quá nửa số năm hưởng dương của Nam Trân tiên sinh rồi. Mà đã “có thâm niên” nghiễm nhiên được lên “lão làng”. Cộng với tài đạo văn, xào xáo, GS Phong Lê đã lý giải hộ chúng tôi, tại sao Lê Xuân Đức trở thành Chuyên gia số 1 về thơ Bác. Thực tế những sai lầm trong sách Nhật ký trong tù và lời bình (cuốn sách mới nhất của Lê Xuân Đức xuất bản đúng dịp 40 năm nghiên cứu thơ Bác) đã nói lên đầy đủ ở hai chữ “theo đuổi”: Lê Xuân Đức chưa bao giờ tiếp cận được thơ Bác ! Ngược lại, chặng cuối Lê Xuân Đức càng thêm đuối sức, phải ăn cắp sức lực, trí tuệ của người khác.
Rốt cuộc, sau một thời gian vẫy vùng, ngụp lặn, (dù đã gian dối sử dụng phao trong cuộc thi bơi) nhưng Lê Xuân Đức vẫn bị chìm nghỉm trong “bể văn chương” mênh mông chữ nghĩa !
Bạn đọc có thể đọc thêm trên Tuấn Công Thư Phòng
HTC
Tốc ký tại Quán trọ Quang Minh
Sầm Sơn, dịp nghỉ 30/4-1/5
Nhãn: Lưu
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ