Nhà báo Anh: Bằng chứng đường 9 đoạn của TQ vô căn cứ
Hoài Vũ/ RFA
Nhà báo Anh Bill Hayton, một trong những chuyên gia nghiên cứu Biển Đông, khẳng định bằng chứng lịch sử về đường chín đoạn của Trung Quốc về chủ quyền tại vùng biển này là vô căn cứ. Ông đưa ra phát biểu trên trong buổi giới thiệu cuốn sách mới về Biển Đông có tên: The South China Sea: The struggle for power in Asia tại đại học Georgetown ở Washington DC, Mỹ, hôm 23/10.
Đơn phương tuyên bố chủ quyền
Trung Quốc lâu nay đơn phương tuyên bố chủ quyền gần như toàn bộ khu vực Biển Đông. Một trong những bằng chứng lịch sử mà họ đưa ra là bản đồ gồm đường 9 đoạn, hay còn gọi là đường lưỡi bò, ôm gần như trọn Biển Đông, bao gồm cả Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam. Đường lưỡi bò này còn chồng lấn lên vùng biển chủ quyền trong khu vực đặc quyền kinh tế tính theo luật pháp quốc tế của một số nước Đông Nam Á.
Tuy nhiên, độ chính xác của đường 9 đoạn này ra sao? Theo nhà báo Bill Hayton vào thập niên 30 khi tàu chiến Pháp cập cảng ở Trường Sa và bắn 21 phát súng tuyên bố chủ quyền ở đây, Trung Quốc do không thể điều quân ra khu vực này nên đã tìm đến các nhà làm bản đồ để khẳng định chủ quyền.
Bill Hayton cho biết đến tận năm 1933, Trung Quốc còn không biết có những đảo gì, tên gì ở Biển Đông. Vào năm 1935, Trung Quốc mới bắt đầu đặt tên cho 132 đảo lớn nhỏ ở khu vực này và phần lớn là dịch ra từ tên tiếng Anh trên bản đồ quốc tế.
Người đưa đoạn lưỡi bò hình chữ U đến với Trung Quốc là một người có tên là Bạch Mi Sơ. Bill Hayton cho hay ông Bạch là một nhân sĩ yêu nước và ham mê địa lý. Năm 1930, Bạch Mi Sơ từng vẽ bản đồ miêu tả lại điều được gọi là “sự sỉ nhục quốc gia” của Trung Quốc, trong đó chỉ ra những phần lãnh thổ của nước này đã bị đánh cắp. Vào năm 1936, ông Bạch vẽ bản đồ với đường lưỡi bò ôm trọn gần như toàn bộ Biển Đông. Ông Bạch từng nói rằng khu vực nằm trong đường lưỡi bò là “những nơi mà ngư dân của Trung Quốc kiếm sống và hiển nhiên là nó thuộc về chủ quyền của chúng ta”.
Nhà báo Bill Hayton phát biểu: “Lần đầu tiên vào năm 1936, đường 9 đoạn được đưa ra. Bản đồ đó sinh ra là hoàn toàn do hiểu lầm.”
Bill Hayton cho rằng sở dĩ có bản đồ như trên cũng như các bản đồ về sự sỉ nhục quốc gia mà Trung Quốc đưa ra là do sự hiểu lầm về quan hệ giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á trước đó. Ông nói các học giả Trung Quốc thời đó đánh đồng việc các nước thiết lập quan hệ thương mại với việc cống nạp với tư cách là nước chư hầu cho Trung Quốc.
Nhà báo Hayton lấy ví dụ về ghi chép liên quan tới quan hệ giữa Trung Quốc và Hà Lan. Theo ghi chép của Trung Quốc thì Hà Lan khi đó là một vương quốc và phải cống nạp cho vương triều Trung Quốc và nhún nhường trước nhà vua ở đây. Tuy nhiên, thực tế là Hà Lan là một nước cộng hoà và việc cống nạp thực chất là trao đổi để được quyền giao thương ở quốc gia đông dân và rộng lớn là Trung Quốc.
Hayton từ đó đặt câu hỏi, có lẽ các nhà học giả Trung Quốc hiểu lầm rằng các nước Đông Nam Á là chư hầu của họ khi cũng phải “cống nạp” cho vương triều.
Đường lưỡi bò được chính quyền Trung Hoa Dân Quốc đưa lên bản đồ vào năm 1947. Lúc này, nó có 11 đoạn. Qua thời gian, hai đoạn được bỏ đi. Nó chứng tỏ Trung Quốc không hề có một cơ sở pháp lý cụ thể nào cho đường lưỡi bò này. Về pháp lý mà nói, đường 9 đoạn không định nghĩa biên giới trên biển của Trung Quốc.
Vậy đường 9 đoạn có ý nghĩa gì? Bill Hayton giải thích:
“Một học thuyết đường chín đoạn chỉ ra những hòn đảo nào thuộc về Trung Quốc và cũng có một lý giải khác là đường chín đoạn là biên giới vùng biển chủ quyền của Trung Quốc, có nghĩa là bao gồm gần như toàn bộ Biển Đông.”
Biển Đông thuộc về bên nào?
Để hoàn thành cuốn sách về Biển Đông, Bill Hayton đã mất hơn hai năm rưỡi đào sâu các tài liệu lịch sử. Theo ông, người đầu tiên tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông là một người Anh, khi đó là để khai thác phân chim. Ngoài Trung Quốc, các nước như Việt Nam, Malaysia, Đài Loan, Philippines cũng tuyên bố một phần chủ quyền ở Biển Đông, tuy nhiên không nước nào đi xa như Trung Quốc trong việc khẳng định quyền sở hữu khu vực thậm chí chồng lấn lên hải phận của nước khác theo luật quốc tế.
Câu hỏi đặt ra cuối cùng là, vậy Biển Đông thuộc về bên nào. Câu trả lời là không ai biết cả.
Liệu có cách nào giải quyết vấn đề tranh chấp ở Biển Đông hay không? Bill Hayton cho rằng khó có thể có một giải pháp hợp lý cho tất cả các bên, vì rằng không một bên nào chịu nhượng bộ hoặc đưa ra những khẳng định có bằng chứng rõ ràng. Cũng không bên nào sẵn lòng thống nhất về một quy chuẩn về pháp lý. Trung Quốc, một bên lớn trong xung đột này chỉ muốn đối thoại song phương trong khi các nước khác muốn đối thoại đa phương.
Bill Hayton cho rằng xung đột ở Biển Đông thỉnh thoảng sẽ lại căng thẳng song ông bác bỏ ý kiến về một cuộc chạy đua vũ trang lớn trong khu vực này. Theo nhà báo, Trung Quốc đã bỏ xa các đối thủ về lĩnh vực vũ khí.
Bill Hayton cũng có một cuốn sách khác về Việt Nam có tên Vietnam - the rising dragon. Cuốn sách mới về Biển Đông của ông vừa được xuất bản. Bill Hayton gia nhập BBC News từ năm 1998. Ông có một năm làm báo ở Việt Nam và gần đây nhất, ông ở Myanmar trong một năm vào năm 2013.
Cuốn sách “The South China Sea: The struggle for power in Asia” tuy còn nhiều điều cần bàn luận thêm nhưng ít ra cũng cho thấy ngày càng nhiều hơn sự quan tâm của quốc tế, đặc biệt trong lĩnh vực truyền thông. Theo nhà báo Bill Hayton thì ông rất vất vả khi tìm nguồn tư liệu từ Việt Nam do đó khó khăn này đã cản trở ông rất nhiều khi viết cuốn sách.
Có lẽ nhà nước Việt Nam nên xem xét việc cung cấp thông tin cho bất cứ ai muốn tìm hiểu về chủ quyền Biển Đông nhằm tránh sự đáng tiếc vì không nắm bắt cơ hội chứng minh chủ quyền của mình trước quốc tế.
Theo RFA
Đọc thêm:Điểm sách của Bill Hayton: Biển Đông và cuộc chiến tranh giành quyền lực ở châu Á
David Brown
Trần Văn Minh dịch/ Ba Sàm
Trong những vấn đề nan giải toàn cầu, tham vọng bá quyền của Trung Quốc ở Biển Đông nên được đưa lên hàng đầu, cùng với thay đổi khí hậu, Thánh chiến và chống vi-rút Ebola. Vấn đề dường như không thể kiểm soát, vì thế giải quyết vấn nạn này đã trở thành sự thử nghiệm quan trọng, liệu trật tự quốc tế có thích hợp với một ‘Trung Quốc đang trỗi dậy’ hay không.
Bất kể tính thận trọng của Tổng thống Barack Obama, biết rằng tham gia vào một cuộc chiến ở nước ngoài dễ hơn là giành chiến thắng, sự đe dọa của các chiến thuật mà Bắc Kinh đặt ra trước lợi ích sống còn của Hoa Kỳ, đang lôi kéo Washington vào một cuộc đối đầu khó tránh khỏi với Trung Quốc. Cho tới một vài năm trước, có thể thấy rằng vấn đề Biển Đông là một cuộc tranh cãi giữa các nước ven biển về nguồn cá và tài nguyên dưới đáy biển, bị làm trầm trọng thêm bởi tính dửng dưng của Trung Quốc. Bây giờ đã rõ ràng là Trung Quốc không muốn đàm phán chủ quyền lãnh thổ với các nước láng giềng theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), mà chỉ quan tâm tới những điều có lợi cho họ. Washington đã phải gác lại giấc mơ về quan hệ đối tác toàn cầu với siêu cường mới trỗi dậy của châu Á, trong khi cân nhắc sự kiểm soát các tuyến đường biển quan trọng của Trung Quốc trong tương lai. Theo Bill Hayton thì Biển Đông “là vị trí đầu tiên trong tham vọng của Trung Quốc đưa tới việc đối mặt với quyết tâm chiến lược của Mỹ”.
Đây là một cuộc đối đầu mà chúng ta cần phải hiểu, và Hayton, phóng viên BBC đã từng có thời gian ở Myanmar và Việt Nam, đã cung cấp cốt truyện. Cuốn Biển Đông, với phụ đề Cuộc đấu tranh quyền lực ở châu Á mà ông nghiên cứu kỹ lưỡng và viết thật chải chuốt, đã được xuất bản tại Anh vào cuối tháng 9 và sẽ được Nhà xuất bản Yale Press xuất bản tại Mỹ vào ngày 28 tháng 10. (Cuốn sách được bán trên Amazon với giá 28 USD).
Cuốn sách dày 320 trang của Hayton chắc chắn sẽ được so sánh với một cuốn sách gần đây của Robert Kaplan có cùng chủ đề, Vạc dầu châu Á: Biển Đông và sự kết thúc của Thái Bình Dương ổn định. Đó là hai cuốn sách khác nhau. Kaplan tung ra sự khái quát nhẹ nhàng về bản sắc, lợi ích quốc gia và nỗi ám ảnh có tham vọng của các nhà lãnh đạo châu Á. Kaplan cho biết, tất cả là sự cân bằng quyền lực, một cuộc cạnh tranh diễn ra “trong cảnh quan mới và có phần hoang vu này của thế kỷ 21″. Đông Nam Á trong mắt ông là một nơi mà Trung Quốc có sứ mệnh đưa những nước chư hầu ngày xưa trở lại quỹ đạo thích hợp của họ và là nơi, nếu Washington thực tế trong sự phân tích, thì phải vui vẻ nhường lại vị thế ưu tiên cho Bắc Kinh.
Ngược lại, Hayton thì giải thích. Các chương mở đầu của ông đã dễ dàng dẫn độc giả đi qua năm ngàn năm trên Biển Đông, rằng đó là một khu vực chung bị chi phối bởi những nhà thám hiểm tiền-Mã Lai. Sau đó, các đế quốc thương mại trỗi dậy và suy tàn: Phù Nam, Champa, Majahapit và Malacca. Vào khoảng năm 1400, lần đầu tiên và duy nhất trước thời đại hiện nay, Trung Quốc trong một thời gian ngắn đã trở thành một cường quốc biển, gửi các đội tàu lớn tới Ấn Độ và Đông Phi trước khi chuyển sự chú ý của mình vào nội địa. Người Âu Châu trong việc tìm kiếm các loại gia vị, đồ gốm và lụa, đến vào những năm 1500. Tây Ban Nha thiết lập quyền thống trị trên quần đảo Philippines; ba thế kỷ sau đó, Pháp ở Đông Dương và Anh tại các bang Malay đã tạo ra các thuộc địa của họ và thậm chí bắt buộc Trung Quốc phải quy phục trước chính sách ngoại giao pháo hạm.
Những người Âu Châu, với ý định phân định ranh giới và thiết lập độc quyền lãnh thổ, đã vô tình đặt nền móng cho ý thức tinh thần quốc gia mãnh liệt, vào giữa thế kỷ 20, trở thành cựu thuộc địa và nhượng địa của họ. Việt Nam, Philippines, Malaysia, và Trung Hoa (cả chính phủ Đài Loan và Bắc Kinh) tất cả tuyên bố những mảng lớn và chồng chéo trên một vùng biển mở rộng mà trong quá khứ đã nối kết họ với nhau thay vì phân chia. Tất cả đã hối hả dựng quốc kỳ của họ trên các rạn san hô, đá và những đảo nhỏ (những ‘cụm’ tập hợp) rải rác trên vùng biển rộng lớn.
Tấm thảm đắt giá mà Hayton dệt tự nó có sức hấp dẫn, nhưng tầm quan trọng đáng chú ý là sợi chỉ ông cẩn thận kéo ra: Đòi hỏi chủ quyền dựa trên chứng cứ lịch sử của Trung Quốc ở vùng biển phía nam Hồng Kông và đảo Hải Nam chủ yếu là rác vụn. Bằng chứng của Trung Quốc đơn giản là không đứng vững trước biên niên sử của các chúa Nguyễn ở Việt Nam, vào khoảng năm 1750, đã phái những cuộc thám hiểm hàng năm đến cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Người Việt Nam chủ yếu khai thác các tàu đắm, chắc chắn như thế, nhưng họ đã để lại những dấu vết và lưu giữ hồ sơ cẩn thận.
Trớ trêu thay, người Việt Nam đã ngưng dựa vào những bằng chứng lịch sử của riêng mình. Thay vào đó, họ dựa vào các quy định phân chia vùng biển được hệ thống hóa trong Công ước Quốc tế về Luật biển, có hiệu lực từ năm 1994. Philippines và Malaysia cũng như vậy. Luật pháp quốc tế là nơi trú ẩn của các quốc gia nhỏ và yếu hơn. Đối với các quốc gia mạnh có ý đồ gỡ bỏ những nỗi nhục trong quá khứ, thì luật pháp quốc tế thường là sự phiền toái bất tiện. Nhà cầm quyền Bắc Kinh có lẽ biết luận điểm pháp lý của họ yếu kém; họ có thể suy diễn rằng Trung Quốc lẽ ra đã thống trị các vùng biển lân cận nếu không bị Tây phương và Nhật Bản áp bức. Đối với một thường dân Trung Quốc vấn đề đó thật giản dị. Các giáo viên và truyền thông đại chúng đã thuyết phục ông ta rằng chủ quyền của Bắc Kinh trên các vùng biển phía Nam và các quần đảo là “không thay đổi” và “không thể tranh cãi.”
Các nhà phân tích – trong số đó gồm có Hayton và tác giả bài viết này – khó có thể giải thích vì sao Bắc Kinh quá ngạo mạn, làm sứt mẻ sự kính trọng [của thế giới dành cho họ] để cho đến gần đây họ đã phải cố gắng hết sức để lấy lại. Hayton thử đưa ra quan điểm cho rằng giới lãnh đạo hải quân, các công ty dầu mỏ và chính quyền địa phương đã mạnh mẽ theo đuổi chính sách đối ngoại tự lập, kéo theo những nhà lãnh đạo cấp cao không muốn lộ vẻ yếu đuối. Lập luận trên không đứng vững trong thời đại Tập Cận Bình; trong những năm gần đây chiến thuật của Trung Quốc đã được phối hợp nhịp nhàng một cách đáng chú ý.
Các nhà phân tích khác đổ lỗi cho cơn khát dầu hỏa và khí đốt dữ dội của siêu cường đang lên. Không nghi ngờ rằng sự tăng trưởng trong tương lai của Trung Quốc phụ thuộc vào nguồn cung cấp phong phú của cả hai. Nhưng chắc phải có nghi ngờ rằng Biển Đông là “Vịnh Ba Tư thứ hai” thường được đề cập trong phương tiện truyền thông Trung Quốc. Hơn nữa, ngang bằng với tỷ giá hối đoái, Trung Quốc đã không có khó khăn tìm nguồn cung ứng dầu khí bên ngoài khu vực, cũng như không nước nào có lợi ích để can thiệp vào mối thương mại đó.
Những quan sát viên phương Tây không cố gắng tìm hiểu vấn đề thường có xu hướng coi những yêu sách và tham vọng của Trung Quốc không kém giá trị hơn tất cả những nước khác. Kaplan đi xa hơn, xem luật pháp quốc tế thực ra không thích đáng trong tranh chấp Biển Đông. Tuy nhiên, tầm mức to lớn của yêu sách lãnh thổ và chiến thuật được sử dụng trong việc theo đuổi mục tiêu của Trung Quốc, là rất quan trọng đối Mỹ và các quốc gia có lợi ích lớn trong việc duy trì một trật tự thế giới hòa bình, dựa trên luật pháp và tự do mậu dịch. Các nhà phân tích này cho rằng một “Trung Quốc đang trỗi dậy” sẽ chỉ chơi theo luật khi phù hợp với lợi ích của họ. Điều đó có nghĩa rằng, Hayton kết luận, khu vực rộng 3.5 triệu kilomet vuông này — vùng ‘biển kín’ lớn nhất thế giới — đã trở thành nơi mà bản chất khác biệt giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ có ngày xung đột.”
Mỗi năm trôi qua, sự căng thẳng tăng cao hơn. Một động lực không ổn định khó tránh khỏi việc sẽ kéo Mỹ và đồng minh châu Á chủ yếu là Nhật vào, để hỗ trợ Việt Nam và Philippines. Trung Quốc không cho thấy có dấu hiệu dịu xuống. Chưa nhìn thấy một kết cuộc hài hòa.
Tái bút: Trớ trêu thay, Bill Hayton không được chào đón tại Việt Nam. Ông là thông tín viên thường trú của BBC tại Hà Nội trong năm 2007-2008. Rõ ràng là các bài viết của ông vào thời điểm đó đã gây khó chịu cho nhà cầm quyền. Khi Hayton nộp đơn xin visa tham dự một cuộc hội thảo tháng 11 năm 2012 về các vấn đề Biển Đông do Học viện Ngoại giao Việt Nam tổ chức, ông đã bị từ chối. Vài tháng sau, Hayton nộp đơn một lần nữa, đặc biệt với yêu cầu phỏng vấn các quan chức Việt Nam cho cuốn sách sắp tới của mình. Một lần nữa ông lại bị từ chối. Kết quả là phần trong cuốn sách của Hayton nói về Việt Nam và Biển Đông tương đối “mỏng” — thiếu những chi tiết để thu hút độc giả mà cuộc nói chuyện với các chuyên gia Việt Nam có thể sẽ cung cấp. Đó là một điều đáng tiếc – và một câu chuyện khác (cho đến nay) có kết cuộc chẳng mấy hay ho gì!
David Brown là một nhà ngoại giao Mỹ đã về hưu, là người viết về các chủ đề Đông Nam Á với sự quan tâm đặc biệt đến Việt Nam đương đại. Có thể liên lạc với ông tại địa chỉ nworbd@gmail.com.
—–
Ghi chú: Bản tiếng Anh đã được đăng trên trang Asia Sentinel: Book Review: The South China Sea: The Struggle for Power in Asia. Một bản khác, tác giả viết riêng cho các độc giả Việt Nam, có phần khác với bản này.
Theo Ba Sàm
Đọc thêm:Điểm sách của Bill Hayton: Biển Đông và cuộc chiến tranh giành quyền lực ở châu Á
David Brown
Trần Văn Minh dịch/ Ba Sàm
Trong những vấn đề nan giải toàn cầu, tham vọng bá quyền của Trung Quốc ở Biển Đông nên được đưa lên hàng đầu, cùng với thay đổi khí hậu, Thánh chiến và chống vi-rút Ebola. Vấn đề dường như không thể kiểm soát, vì thế giải quyết vấn nạn này đã trở thành sự thử nghiệm quan trọng, liệu trật tự quốc tế có thích hợp với một ‘Trung Quốc đang trỗi dậy’ hay không.
Bất kể tính thận trọng của Tổng thống Barack Obama, biết rằng tham gia vào một cuộc chiến ở nước ngoài dễ hơn là giành chiến thắng, sự đe dọa của các chiến thuật mà Bắc Kinh đặt ra trước lợi ích sống còn của Hoa Kỳ, đang lôi kéo Washington vào một cuộc đối đầu khó tránh khỏi với Trung Quốc. Cho tới một vài năm trước, có thể thấy rằng vấn đề Biển Đông là một cuộc tranh cãi giữa các nước ven biển về nguồn cá và tài nguyên dưới đáy biển, bị làm trầm trọng thêm bởi tính dửng dưng của Trung Quốc. Bây giờ đã rõ ràng là Trung Quốc không muốn đàm phán chủ quyền lãnh thổ với các nước láng giềng theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS), mà chỉ quan tâm tới những điều có lợi cho họ. Washington đã phải gác lại giấc mơ về quan hệ đối tác toàn cầu với siêu cường mới trỗi dậy của châu Á, trong khi cân nhắc sự kiểm soát các tuyến đường biển quan trọng của Trung Quốc trong tương lai. Theo Bill Hayton thì Biển Đông “là vị trí đầu tiên trong tham vọng của Trung Quốc đưa tới việc đối mặt với quyết tâm chiến lược của Mỹ”.
Đây là một cuộc đối đầu mà chúng ta cần phải hiểu, và Hayton, phóng viên BBC đã từng có thời gian ở Myanmar và Việt Nam, đã cung cấp cốt truyện. Cuốn Biển Đông, với phụ đề Cuộc đấu tranh quyền lực ở châu Á mà ông nghiên cứu kỹ lưỡng và viết thật chải chuốt, đã được xuất bản tại Anh vào cuối tháng 9 và sẽ được Nhà xuất bản Yale Press xuất bản tại Mỹ vào ngày 28 tháng 10. (Cuốn sách được bán trên Amazon với giá 28 USD).
Cuốn sách dày 320 trang của Hayton chắc chắn sẽ được so sánh với một cuốn sách gần đây của Robert Kaplan có cùng chủ đề, Vạc dầu châu Á: Biển Đông và sự kết thúc của Thái Bình Dương ổn định. Đó là hai cuốn sách khác nhau. Kaplan tung ra sự khái quát nhẹ nhàng về bản sắc, lợi ích quốc gia và nỗi ám ảnh có tham vọng của các nhà lãnh đạo châu Á. Kaplan cho biết, tất cả là sự cân bằng quyền lực, một cuộc cạnh tranh diễn ra “trong cảnh quan mới và có phần hoang vu này của thế kỷ 21″. Đông Nam Á trong mắt ông là một nơi mà Trung Quốc có sứ mệnh đưa những nước chư hầu ngày xưa trở lại quỹ đạo thích hợp của họ và là nơi, nếu Washington thực tế trong sự phân tích, thì phải vui vẻ nhường lại vị thế ưu tiên cho Bắc Kinh.
Ngược lại, Hayton thì giải thích. Các chương mở đầu của ông đã dễ dàng dẫn độc giả đi qua năm ngàn năm trên Biển Đông, rằng đó là một khu vực chung bị chi phối bởi những nhà thám hiểm tiền-Mã Lai. Sau đó, các đế quốc thương mại trỗi dậy và suy tàn: Phù Nam, Champa, Majahapit và Malacca. Vào khoảng năm 1400, lần đầu tiên và duy nhất trước thời đại hiện nay, Trung Quốc trong một thời gian ngắn đã trở thành một cường quốc biển, gửi các đội tàu lớn tới Ấn Độ và Đông Phi trước khi chuyển sự chú ý của mình vào nội địa. Người Âu Châu trong việc tìm kiếm các loại gia vị, đồ gốm và lụa, đến vào những năm 1500. Tây Ban Nha thiết lập quyền thống trị trên quần đảo Philippines; ba thế kỷ sau đó, Pháp ở Đông Dương và Anh tại các bang Malay đã tạo ra các thuộc địa của họ và thậm chí bắt buộc Trung Quốc phải quy phục trước chính sách ngoại giao pháo hạm.
Những người Âu Châu, với ý định phân định ranh giới và thiết lập độc quyền lãnh thổ, đã vô tình đặt nền móng cho ý thức tinh thần quốc gia mãnh liệt, vào giữa thế kỷ 20, trở thành cựu thuộc địa và nhượng địa của họ. Việt Nam, Philippines, Malaysia, và Trung Hoa (cả chính phủ Đài Loan và Bắc Kinh) tất cả tuyên bố những mảng lớn và chồng chéo trên một vùng biển mở rộng mà trong quá khứ đã nối kết họ với nhau thay vì phân chia. Tất cả đã hối hả dựng quốc kỳ của họ trên các rạn san hô, đá và những đảo nhỏ (những ‘cụm’ tập hợp) rải rác trên vùng biển rộng lớn.
Tấm thảm đắt giá mà Hayton dệt tự nó có sức hấp dẫn, nhưng tầm quan trọng đáng chú ý là sợi chỉ ông cẩn thận kéo ra: Đòi hỏi chủ quyền dựa trên chứng cứ lịch sử của Trung Quốc ở vùng biển phía nam Hồng Kông và đảo Hải Nam chủ yếu là rác vụn. Bằng chứng của Trung Quốc đơn giản là không đứng vững trước biên niên sử của các chúa Nguyễn ở Việt Nam, vào khoảng năm 1750, đã phái những cuộc thám hiểm hàng năm đến cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Người Việt Nam chủ yếu khai thác các tàu đắm, chắc chắn như thế, nhưng họ đã để lại những dấu vết và lưu giữ hồ sơ cẩn thận.
Trớ trêu thay, người Việt Nam đã ngưng dựa vào những bằng chứng lịch sử của riêng mình. Thay vào đó, họ dựa vào các quy định phân chia vùng biển được hệ thống hóa trong Công ước Quốc tế về Luật biển, có hiệu lực từ năm 1994. Philippines và Malaysia cũng như vậy. Luật pháp quốc tế là nơi trú ẩn của các quốc gia nhỏ và yếu hơn. Đối với các quốc gia mạnh có ý đồ gỡ bỏ những nỗi nhục trong quá khứ, thì luật pháp quốc tế thường là sự phiền toái bất tiện. Nhà cầm quyền Bắc Kinh có lẽ biết luận điểm pháp lý của họ yếu kém; họ có thể suy diễn rằng Trung Quốc lẽ ra đã thống trị các vùng biển lân cận nếu không bị Tây phương và Nhật Bản áp bức. Đối với một thường dân Trung Quốc vấn đề đó thật giản dị. Các giáo viên và truyền thông đại chúng đã thuyết phục ông ta rằng chủ quyền của Bắc Kinh trên các vùng biển phía Nam và các quần đảo là “không thay đổi” và “không thể tranh cãi.”
Các nhà phân tích – trong số đó gồm có Hayton và tác giả bài viết này – khó có thể giải thích vì sao Bắc Kinh quá ngạo mạn, làm sứt mẻ sự kính trọng [của thế giới dành cho họ] để cho đến gần đây họ đã phải cố gắng hết sức để lấy lại. Hayton thử đưa ra quan điểm cho rằng giới lãnh đạo hải quân, các công ty dầu mỏ và chính quyền địa phương đã mạnh mẽ theo đuổi chính sách đối ngoại tự lập, kéo theo những nhà lãnh đạo cấp cao không muốn lộ vẻ yếu đuối. Lập luận trên không đứng vững trong thời đại Tập Cận Bình; trong những năm gần đây chiến thuật của Trung Quốc đã được phối hợp nhịp nhàng một cách đáng chú ý.
Các nhà phân tích khác đổ lỗi cho cơn khát dầu hỏa và khí đốt dữ dội của siêu cường đang lên. Không nghi ngờ rằng sự tăng trưởng trong tương lai của Trung Quốc phụ thuộc vào nguồn cung cấp phong phú của cả hai. Nhưng chắc phải có nghi ngờ rằng Biển Đông là “Vịnh Ba Tư thứ hai” thường được đề cập trong phương tiện truyền thông Trung Quốc. Hơn nữa, ngang bằng với tỷ giá hối đoái, Trung Quốc đã không có khó khăn tìm nguồn cung ứng dầu khí bên ngoài khu vực, cũng như không nước nào có lợi ích để can thiệp vào mối thương mại đó.
Những quan sát viên phương Tây không cố gắng tìm hiểu vấn đề thường có xu hướng coi những yêu sách và tham vọng của Trung Quốc không kém giá trị hơn tất cả những nước khác. Kaplan đi xa hơn, xem luật pháp quốc tế thực ra không thích đáng trong tranh chấp Biển Đông. Tuy nhiên, tầm mức to lớn của yêu sách lãnh thổ và chiến thuật được sử dụng trong việc theo đuổi mục tiêu của Trung Quốc, là rất quan trọng đối Mỹ và các quốc gia có lợi ích lớn trong việc duy trì một trật tự thế giới hòa bình, dựa trên luật pháp và tự do mậu dịch. Các nhà phân tích này cho rằng một “Trung Quốc đang trỗi dậy” sẽ chỉ chơi theo luật khi phù hợp với lợi ích của họ. Điều đó có nghĩa rằng, Hayton kết luận, khu vực rộng 3.5 triệu kilomet vuông này — vùng ‘biển kín’ lớn nhất thế giới — đã trở thành nơi mà bản chất khác biệt giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ có ngày xung đột.”
Mỗi năm trôi qua, sự căng thẳng tăng cao hơn. Một động lực không ổn định khó tránh khỏi việc sẽ kéo Mỹ và đồng minh châu Á chủ yếu là Nhật vào, để hỗ trợ Việt Nam và Philippines. Trung Quốc không cho thấy có dấu hiệu dịu xuống. Chưa nhìn thấy một kết cuộc hài hòa.
Tái bút: Trớ trêu thay, Bill Hayton không được chào đón tại Việt Nam. Ông là thông tín viên thường trú của BBC tại Hà Nội trong năm 2007-2008. Rõ ràng là các bài viết của ông vào thời điểm đó đã gây khó chịu cho nhà cầm quyền. Khi Hayton nộp đơn xin visa tham dự một cuộc hội thảo tháng 11 năm 2012 về các vấn đề Biển Đông do Học viện Ngoại giao Việt Nam tổ chức, ông đã bị từ chối. Vài tháng sau, Hayton nộp đơn một lần nữa, đặc biệt với yêu cầu phỏng vấn các quan chức Việt Nam cho cuốn sách sắp tới của mình. Một lần nữa ông lại bị từ chối. Kết quả là phần trong cuốn sách của Hayton nói về Việt Nam và Biển Đông tương đối “mỏng” — thiếu những chi tiết để thu hút độc giả mà cuộc nói chuyện với các chuyên gia Việt Nam có thể sẽ cung cấp. Đó là một điều đáng tiếc – và một câu chuyện khác (cho đến nay) có kết cuộc chẳng mấy hay ho gì!
David Brown là một nhà ngoại giao Mỹ đã về hưu, là người viết về các chủ đề Đông Nam Á với sự quan tâm đặc biệt đến Việt Nam đương đại. Có thể liên lạc với ông tại địa chỉ nworbd@gmail.com.
—–
Ghi chú: Bản tiếng Anh đã được đăng trên trang Asia Sentinel: Book Review: The South China Sea: The Struggle for Power in Asia. Một bản khác, tác giả viết riêng cho các độc giả Việt Nam, có phần khác với bản này.
Theo Ba Sàm
Nhãn: Lưu
0 Nhận xét:
Đăng nhận xét
Đăng ký Đăng Nhận xét [Atom]
<< Trang chủ